TS Trịnh Thu Tuyết, nguyên giáo viên Ngữ văn tại Trường THPT Chu Văn An (Tây Hồ, Hà Nội) đưa ra một số nhận định về đề thi HSG quốc gia môn Ngữ văn.

TS Trịnh Thu Tuyết, nguyên giáo viên Ngữ văn tại Trường THPT Chu Văn An. Ảnh: NVCC.

Tạo hứng thú cho thí sinh

Câu nghị luận xã hội thu hút được khá nhiều hứng thú từ thế hệ học trò gen Z bởi sự phù hợp về tâm lí, tính cách một thế hệ được sống trong thời đại phát triển nhanh chóng về các phương tiện giao tiếp xã hội, bùng nổ về công nghệ thông tin, một thế hệ năng động, tự tin, đầy cá tính.

Với hành trang tri thức của thời 4.0, “người trẻ trong thời đại ngày nay” luôn tự tin và luôn có nhu cầu khẳng định giá trị bản thân bằng mọi cách có thể – trong đó, sự hiện diện “cái tôi” với những trải nghiệm tạo hiệu ứng (dù có thể trái chiều) trên mạng xã hội là một trong những ưu tiên lựa chọn hàng đầu của họ.

Khẳng định giá trị bản thân là nhu cầu chính đáng của mọi người, mọi thời – vấn đề của muôn đời, thậm chí từ thuở của kẻ đốt đền Herostratus (!).

Đề đã làm mới tâm lí muôn đời bằng một câu hỏi trong giới hạn cụ thể của thế hệ “người trẻ trong thời đại ngày nay” – những người làm chủ công nghệ, tràn đầy tự tin cùng niềm khao khát được khẳng định bản thân: “Trải nghiệm – ghi lại – tức thời chia sẻ lên mạng xã hội có nên là phương cách khẳng định giá trị của người trẻ trong thời đại ngày nay?”.

Chắc chắn đề bài làm của học sinh sẽ xuất hiện những kiến giải nhiều chiều thú vị về cả hai mặt tích cực và tiêu cực của hiện tượng xã hội cực kì quen thuộc, phổ biến.

Khẳng định giá trị bản thân bằng việc “Trải nghiệm – ghi lại – tức thời chia sẻ lên mạng xã hội” sẽ là sự lựa chọn của các bạn trẻ luôn đánh giá cao sự sắc sảo, nhạy bén, cập nhật với các hiện tượng đời sống, thích thú với sự “quá nhanh, quá nguy hiểm”!

Những bài viết còn băn khoăn về phương cách này, còn e ngại sự “dục tốc bất đạt”, sự hồ đồ nóng vội thường gắn với những suy nghĩ và xúc cảm hời hợt có thể sẽ là bài viết của các bạn hướng nội và sâu sắc, thấu hiểu “trải nghiệm” không chỉ là một khoảnh khắc trải qua mà phải gắn với cả một quá trình chiêm nghiệm, điều chỉnh, tự ý thức…!

Nhìn chung, câu hỏi có thể tạo hứng thú, hứa hẹn những bài viết sinh động, dù không hứa hẹn có những kiến giải riêng độc đáo mang tính tranh biện đột phá – bởi vấn đề đã hiện hữu khá tường minh.

Đây là minh chứng cho thấy đề có thể rất thời sự nhưng lại không thực sự mới, đề có thể tạo hứng thú cho người viết nhưng cũng dễ xuất hiện những bài văn viết theo “tính tích cực cần phải như vậy” hơn là “thực tế nghĩ và làm như vậy”!

Ví như có những bài văn sẽ đề cao sự thâm trầm của trải nghiệm và chiêm nghiệm nhưng tác giả bài viết vẫn thường xuyên đăng trên mạng xã hội những hình ảnh tức thời, thậm chí chia sẻ một vết muỗi đốt.

Cần dẫn bản gốc để đối chiếu

Câu nghị luận văn học yêu cầu bàn luận về quan niệm từ đoạn ngữ liệu trích từ cuốn “Bản mệnh của lí thuyết: văn chương và cảm nghĩ thông thường” của nhà phê bình văn học người Pháp Antoine Compagnon.

Tác phẩm này được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1995; được dịch sang tiếng Việt bởi hai dịch giả Lê Hồng Sâm và Đặng Anh Đào: “Các kiệt tác lớn là vô tận; mỗi thế hệ hiểu chúng theo cách của mình.

Như vậy có nghĩa là các độc giả tìm thấy ở đó một điều gì rọi sáng một phương diện trải nghiệm của họ. Nhưng nếu như một tác phẩm là vô tận, điều đó không có ý nói rằng nó không có nghĩa khởi thuỷ, hay chủ ý tác giả không phải là tiêu chuẩn của nghĩa khởi thuỷ ấy. Cái vô tận, là ý nghĩa của nó, là tính thích đáng của nó bên ngoài bối cảnh nó xuất hiện.”

Từ sự bối rối của các thí sinh khi cố gắng đọc – hiểu ý kiến của Antoine Compagnon, dư luận nói chung đều có sự băn khoăn về cách diễn đạt câu chữ trong bản dịch. Cái khó là những văn bản tiếng Anh (sẽ rất quen thuộc với những “người trẻ trong thời đại ngày nay”) được tìm kiếm trong các nguồn thông tin trên mạng lại vẫn chỉ là bản dịch từ nguyên bản tiếng Pháp, cho nên tam sao thất bản là khó tránh.

Theo nguồn dịch tin cậy, tôi đã tiếp xúc với hai bản dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Anh. Cần quan tâm câu đầu của bản thứ nhất: “Great masterpieces are timeless…”. Còn đây là câu đầu của bản thứ hai: “Great masterpieces are infinite…”.

Sau khi đối chiếu nhiều nguồn tư liệu khác, tôi nhận thấy bản dịch được dẫn trong đề bám sát bản gốc. Tuy nhiên, nhiều khi dịch không đồng nghĩa với chuyển ngữ, dịch cần chính xác ý tưởng bản gốc nhưng cũng rất cần giúp bản dịch truyền tải được đúng ý tưởng ấy theo cách tư duy đặc thù của cộng đồng ngôn ngữ người tiếp nhận.

Điểm khác nhau lớn nhất giữa hai bản dịch sang tiếng Anh tôi vừa dẫn là từ “timeless” và “infinite” – điều đó không làm thay đổi quan niệm của Antoine Compagnon: Trong ngữ cảnh của quan niệm, nét nghĩa “vô tận” (infinite) có mối liên hệ chặt chẽ với ý nghĩa bản chất của sự “trường tồn”, sự “vượt thời gian”(timeless) – khi một tác phẩm có thể được “đọc” ra những tầng nghĩa mới, có thể soi sáng một phương diện nào đó trong trải nghiệm của hậu thế.

Có thể tìm thấy tiếng nói chung (sự phù hợp) với không gian/thời gian “bên ngoài bối cảnh nó xuất hiện”, thì như cách diễn đạt trong status của Nguyễn Văn Dân, “các tác phẩm văn học lớn không bao giờ cạn kiệt ý nghĩa”; và đó chính là những biểu hiện cho thấy tác phẩm ấy đã vượt thời gian, đã trường tồn, bất tử.

Vậy vấn đề chỉ là cần diễn đạt rõ ý/thoát nghĩa câu mở đầu ngữ liệu: Các kiệt tác vĩ đại luôn mở ra những tầng nghĩa vô tận/ Ý nghĩa của các tác phẩm lớn là vô tận/ Khả năng tạo nghĩa của các tác phẩm lớn là vô tận… thay vì “Các kiệt tác lớn là vô tận”.

Toàn bộ quan niệm có thể rút ra từ ngữ liệu vốn rất giản dị: Mỗi tác phẩm là một văn bản hữu hạn với ý nghĩa khởi thuỷ từ ý đồ nghệ thuật và thông điệp tư tưởng của nhà văn; mỗi người đọc sẽ tạo ra một phiên bản mới với cách hiểu, cách cảm mới bởi “tầm đón nhận” (H. Jauss) của riêng mình.

Một tác phẩm được coi là kiệt tác trước hết phải là sản phẩm thiên tài trong nghệ thuật tổ chức/sắp đặt/tạo dựng tầng bậc cấu trúc nội tại tác phẩm, khiến nó thực sự là một cấu trúc đứng lại được với thời gian bởi khả năng khơi mở vô biên những tầng nghĩa mới; những tầng nghĩa thậm chí có thể nằm ngoài hình dung của nhà văn, nhưng vẫn được khởi phát từ cấu trúc kì diệu của tác phẩm.

Có thể hình dung phần nào quan niệm của Antoine Compagnon về “kiệt tác vĩ đại” qua quan niệm khá giản dị, minh triết của Nam Cao về một “tác phẩm để đời”, đó là “một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người” – khi tác phẩm đi đến tận cùng bản thể, nó sẽ gặp loài người, đi tới tận cùng cái hôm nay, nó sẽ tìm được tiếng nói chung với ngày mai, với muôn đời.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *